Nghĩa trủng Phước Ninh – Minh chứng lịch sử của lòng yêu nước
Trong những ngày lễ, kỷ niệm hướng về những anh hùng liệt sĩ trên cả nước, Nhân dân và chính quyền TP Đà Nẵng nói chung, phường Hải Châu nói riêng luôn nhắc nhớ nhau về thăm Nghĩa trủng Phước Ninh – một trong hai nghĩa trang liệt sĩ đầu tiên và “độc nhất vô nhị” của nước Việt.
Thanh niên phường Hải Châu thắp nến tri ân tại Nghĩa trủng Phước Ninh dịp 27/7 vừa qua.
Chứng tích lịch sử
Rạng sáng 1/9/1858, liên quân Pháp - Tây Ban Nha đã nổ súng bắn phá các đồn lũy, chiếm đánh thành Điện Hải, An Hải, mở đầu cho cuộc chiến tranh xâm lược của phương Tây vào Việt Nam. Hàng nghìn nghĩa sĩ, nghĩa dân của Quảng Nam - Đà Nẵng, Quảng Ngãi… dưới sự chỉ huy của các tướng lĩnh triều Nguyễn đã anh dũng chiến đấu và ngã xuống trên mảnh đất Đà Nẵng trong quá trình bảo vệ quê hương.
Theo sử sách ghi rõ, diễn biến của trận đánh cho thấy địch không thể phát huy được sức mạnh của binh khí kỹ thuật để tấn công ồ ạt, mà bị chặn ngay ở cửa biển Đà Nẵng. Đây là kết quả của sức kháng cự quyết liệt của lực lượng đồn trú dưới sự chỉ huy của một triều đình lúc đó còn toàn vẹn sinh lực, với quyết tâm cao và khối đoàn kết toàn dân. Ngoài quân chủ lực thuộc triều đình, cuộc chiến còn có sự tham gia của lực lượng biền binh và dân binh sở tại.
Cho đến hết năm 1858, quân địch vẫn không sao mở rộng được địa bàn chiếm đóng, phá vỡ thế phòng thủ của ta, để thực hiện chiến lược đánh nhanh, thắng nhanh. Và sau 18 tháng đánh chiếm Đà Nẵng (từ 1/9/1858 đến 23/3/1860), liên quân Pháp - Tây Ban Nha được lệnh của Chính phủ Pháp rút hết quân ra khỏi Đà Nẵng.
Đây là thắng lợi lớn và duy nhất của quân và dân ta ở mặt trận Đà Nẵng trong hơn một phần tư thế kỷ chống xâm lược từ 1858 đến 1884.
Nghĩa trang liệt sĩ đầu tiên và độc nhất vô nhị
Trong 18 tháng cầm chân, làm thất bại kế hoạch của quân giặc, hàng ngàn nghĩa sĩ của ta đã ngã xuống, nhất là trong 2 trận đầu Pháp tấn công vào tháng 9 và 11/1858. Trong điều kiện chiến tranh khốc liệt, nghĩa sĩ tử trận chỉ được mai táng vội vã và sơ sài.
Nhiều năm sau chiến tranh Mậu Ngọ 1858, vua Tự Đức đã chỉ đạo quy tập hài cốt tử sĩ vào 2 nghĩa trủng Phước Ninh và Khuê Trung.
Vào năm Tự Đức 19 (1866), Nghĩa trủng Khuê Trung hay còn gọi là Nghĩa trủng Hoà Vang được lập lần đầu tiên ở làng Nghi An. Năm 1962, quân đội Mỹ mở rộng sân bay, nghĩa trủng lại dời đến vị trí hiện tại ( phường Cẩm Lệ).
Nghĩa trủng Phước Ninh được lập từ năm 1876 với hơn 1500 ngôi mộ. Đặc biệt, trong nghĩa trủng còn lưu giữ được một văn bia đá sa thạch màu xanh đen và mộ của 2 vị tướng Nguyễn Viết Thứ và Nguyễn Thượng Chất. Trong quá trình chỉnh trang đô thị các ngôi mộ này đã được chuyển đến Nghĩa trủng Hòa Vang và Nghĩa trang Sơn Gà (thuộc xã Hòa Tiến ngày nay).
Riêng Nghĩa trủng Phước Ninh hiện nay, nơi đây vẫn còn cây đa, tấm bia và đến ngày rằm người dân địa phương vẫn thường xuyên đến dâng hương.
Nghĩa trủng Phước Ninh ngày nay vẫn còn cây đa, văn bia.
Ông Huỳnh Văn Hùng, nguyên Giám đốc Sở Văn hoá – Thể thao TP Đà Nẵng từng chia sẻ với báo chí rằng, liệt sĩ là những người hy sinh vì đất nước trong khi làm nhiệm vụ. Những người dưới trướng Nguyễn Tri Phương, Lê Đình Lý tham gia chống Pháp mà hy sinh thì cũng là liệt sĩ.
“Nên gọi nghĩa trủng này là nghĩa trang liệt sĩ đầu tiên của cả nước cũng đúng, bởi trong lịch sử hàng ngàn năm của đất nước, những người hy sinh vì nghĩa chưa được quy tập vào nghĩa trang, chưa thấy nơi nào trên cả nước có nghĩa trủng kiểu này” - ông Hùng phân tích.
Trong bài viết “Cuộc chiến đấu dưới chân thành Điện Hải – 155 năm sau nhìn lại” đăng trong cuốn “Đà Nẵng chống liên quân Pháp – Tây Ban Nha 1858 – 1860” (NXB Giáo dục VN 2014), ông Bùi Văn Tiếng, Chủ tịch Hội Khoa học lịch sử Đà Nẵng nêu rõ, cái độc đáo chỉ riêng Đà Nẵng mới có là ngay sau khi kết thúc chiến tranh không lâu, lần đầu tiên ở nước ta có 2 nghĩa trang liệt sĩ quốc gia – Nghĩa trủng Phước Ninh và Khuê Trung.
Đó là sau khi quân Pháp buộc phải cuốn cờ, rút chạy khỏi Đà Nẵng ngày 23/3/1860, cùng với việc lo xây dựng và khôi phục cuộc sống, theo chỉ đạo của triều đình nhà Nguyễn và xuất phát từ đạo lý dân tộc, Nhân dân và quan quân đã làm một việc đại nghĩa là quy tập hài cốt của các nghĩa sĩ hy sinh, xây thành đắp mộ, gọi là Nghĩa trủng - nơi an nghỉ của những con người đã ngã xuống vì nghĩa lớn thiêng liêng bảo vệ nước nhà.
Với những giá trị lịch sử đó, Nghĩa trủng Phước Ninh được công nhận là di tích lịch sử cấp quốc gia năm 1988, Nghĩa trủng Khuê Trung được công nhận là di tích lịch sử cấp quốc gia năm 1999.
Thùy Trang